Tóm tắt Ngành sản xuất kim loại Việt Nam
Ngành sản xuất kim loại là ngành trọng điểm của bất kỳ nền kinh tế nào vì đây là ngành phục vụ cho nhiều ngành công nghiệp khác bao gồm sản xuất ô tô, hàng không, điện, các thiết bị điện, y tế, năng lượng, xây dựng, đúc tiền,… Sản xuất các kim loại chứa sắt, kim loại quý và kim loại màu là các phân ngành của ngành này.
Thị trường Ngành sản xuất kim loại thế giới trị giá
3.570,2 tỷ USD vào năm 2019, dự báo sẽ sụt giảm xuống 3.117,1 tỷ USD vào năm 2020 cùng mức tỉ lệ tăng trưởng kép hàng năm CAGR là -12,7%. Lý do chủ yếu do sự suy thoái kinh tế bởi dịch Covid-19. Năm 2021 được dự đoán sẽ là năm phuc hồi với CAGR đạt 9%, đồng thời đạt 3815,3 tỷ USD vào năm 2023. Châu Á Thái Bình Vương là khu vực có tỉ trọng lớn nhất trong ngành sản xuất kim loại, chiểm 63%. Theo sau là khu vực châu Âu với tỉ trọng 13%. Theo KPMG, các doanh nghiệp trong ngành đang tập trung đầu tư vào khoa học công nghệ nhằm nâng cao hiệu quả, năng suất, đồng thời cải thiện tính an toàn lao động và giảm thiểu chi phí nhân công.
Sản xuất thép Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong chuỗi giá trị công nghiệp hóa. Năm 2019, Việt Nam sản xuất được 25,2 triệu tấn thép, tăng 4,4% so với năm 2018. Tổng tiêu thụ thép năm 2019 tăng 9%, tuy nhiên có sự khác biệt trong từng phân khúc: tôn mạ có tốc độ tăng trưởng là 12,5%, thép xây dựng nội địa là 6,8%, ống thép giảm còn 2,3%. Giai đoạn 2018 – 2019, các doanh nghiệp ngành Thép có tốc độ phát triển chững lại do ảnh hưởng của chiến tranh thường mại và sự gia tăng bảo hộ ngành thép của các nước trên thế giới, đặc biệt là Mỹ. Năm 2019, Việt Nam xuất khẩu 4,59 triệu tấn thép, giảm 3,4% so với năm 2018. Thép Việt Nam chủ yếu cuất sang thị trường Đông Nam Á bao gồm Campuchia, Indonesia, Malaysia, và thị trường Trung Quốc, Mỹ, Liên minh châu Âu. Trong đó tỷ trọng thị trường Mỹ và EU thu hẹp năm 2019.
Do chuỗi cung ứng ngành thép chưa hoàn thiện, Việt Nam mới chỉ cung ứng đủ thép xây dựng, thép ống, thép hộp, còn các loại thép khác như thép tấm, thép hình, thép chế tạo, Việt Nam vẫn phải đi nhập khẩu. Thị trường nhập khẩu chính cao gồm Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản. Nhập khẩu sắt thép các loại năm 2019 đạt 14,56 triệu tấn, tăng về lượng nhưng giảm về kim ngạch do giá thép thế giới giảm. Sản lượng thép thế giới đang dư thừa không chỉ tạo áp lực cho xuất khẩu mà còn gây cạnh tranh trong thị trường nội địa. Để bảo vệ ngành sản xuất trong nước, Việt Nam có thực hiện biện pháp áp thuế tự vệ lên một số sản phẩm như phôi thép và thép dài cho đến năm 2023. Sắt thép Việt Nam là ngành bị kiện phòng vệ thương mại nhiều nhất, chiếm đến 40,2% tổng số vụ kiện.
Ngành sản xuất nhôm Việt Nam còn non trẻ, công nghệ chưa tiên tiến, nhưng đã có sự phát triển trong 2 năm gần đây (2018 – 2019). Tuy nhiên các doanh nghiệp sản xuất Việt Nam gặp khó khăn trước áp lực dư cung từ Trung Quốc khiến giá nhôm từ nước này xuất khẩu sang Việt Nam rất rẻ. Bộ Công Thương đã áp dụng thuế bán phá giá với một số sản phẩm nhôm Trung Quốc nhằm kiểm soát lượng nhập khẩu. Các nhà máy sản xuất kẽm - chì hầu như không hoạt động hết công suất do tình trạng thiếu nguyên liệu.
Hiệp định EVFTA được đánh giá là mang lại nhiều cơ hội cho ngành, giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam có thể mở rộng thị trường xuất khẩu trong bối cảnh thị trường trong nước cạnh tranh. Các doanh nghiệp trong ngành đang nỗ lực nâng cao giá trị gia tăng trong khâu sản xuất để có thể tận dụng được cơ hội mới này.